Tình hình xuất khẩu dệt may, da giày sang khu vực châu Âu – châu Mỹ trong 9 tháng năm 2025 và một số dự báo
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng dệt may và các sản phẩm liên quan của Việt Nam vào các thị trường khu vực Âu – Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt 20,4 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng dệt, may đạt 19,4 tỷ USD, tăng 11%; nguyên phụ liệu dệt, may & da, giày đạt 360,1 triệu USD, tăng 10,7%; xơ, sợi dệt các loại đạt 360,1 triệu USD, tăng 13,3%; vải mành, vải kỹ thuật khác đạt 199,8 triệu USD, giảm 9,6%. Cùng với đó, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng da giày và túi xách của Việt Nam vào các thị trường khu vực Âu – Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt 16,1 tỷ USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, mặt hàng giày dép các loại đạt 13,6 tỷ USD, tăng 11,5%; ngành hàng túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù đạt 2,5 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Tổng cộng toàn bộ nhóm hàng dệt may, da giày xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Âu – Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt 36,4 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Nhiều tín hiệu tích cực trong xuất khẩu dệt may, da giày sang khu vực Âu – Mỹ

Tình hình xuất khẩu mặt hàng dệt may
Tình hình xuất khẩu nhóm dệt may và các phân ngành liên quan của Việt Nam sang khu vực châu Âu – châu Mỹ trong 9 tháng đầu năm 2025 tiếp tục duy trì quán tính tăng trưởng tích cực. Tổng kim ngạch toàn nhóm sang khu vực đạt 20,36 tỷ USD, tăng 10,80% so với cùng kỳ năm 2024 (18,38 tỷ USD).
Cơ cấu thị trường tiếp tục tập trung cao vào Hoa Kỳ với 13,98 tỷ USD, tăng 12,41% và chiếm khoảng 68,7% tổng kim ngạch của khu vực; trong khi xuất khẩu sang khối EU-27 đạt 3,70 tỷ USD, tăng 12,07% và nhóm các nước CPTPP tại Âu – Mỹ (Vương quốc Anh, Canada, Mexico, Chile, Peru) ghi nhận 1,90 tỷ USD, tăng 9,39% so với 9 tháng năm 2024.
Diễn biến theo từng thị trường cho thấy bức tranh tăng trưởng rộng hơn ở châu Âu và khu vực CPTPP, qua đó bổ trợ cho đà tăng từ Hoa Kỳ. Trong khu vực EU-27, xuất khẩu sang Hà Lan đạt 998,12 triệu USD (tăng 11,34%), Tây Ban Nha 502,43 triệu USD (tăng 9,41%), Bỉ 342,31 triệu USD (tăng 6,85%), cùng với điểm nhấn tại thị trường Thụy Điển tăng 55,21%, với kim ngạch 118,67 triệu USD; riêng Đan Mạch giảm 4,17%, đạt 44,07 triệu USD.
Ở nhóm nước CPTPP Âu – Mỹ, kim ngạch xuất khẩu sang Vương quốc Anh tăng 17,66%, đạt 689,55 triệu USD; Canada tăng 3,32% đạt 946,05 triệu USD; Mexico tăng 4,25% đạt 165,14 triệu USD; Chile tăng 26,44% đạt 80,66 triệu USD; Peru tăng 37,98% đạt 21,04 triệu USD.
Các “điểm nóng” tăng trưởng tại châu Mỹ ngoài Hoa Kỳ gồm: Panama đạt 33,13 triệu USD, tăng 106,43%; Argentina đạt 49,03 triệu USD, tăng 4,20%; Brazil đạt 103,84 triệu USD, tăng 5,35%.
Xuất khẩu dệt may sang một số quốc gia châu Âu ngoài EU có sự phân hóa: Nga giảm 27,01%, đạt 450,07 triệu USD; Ukraine tăng 21,28%, đạt 7,15 triệu USD; Na Uy tăng 40,06%, đạt 10,10 triệu USD; Thụy Sĩ tăng 2,38%, đạt 8,30 triệu USD.
Ở cấp độ cấu trúc khu vực, ngoài Hoa Kỳ, các đầu mối trung chuyển và phân phối trong EU như Hà Lan (quy mô gần 998,12 triệu USD), cùng các thị trường lớn là Canada (khoảng 946,05 triệu USD), Vương quốc Anh (khoảng 689,55 triệu USD) và Đức (khoảng 737,78 triệu USD) tiếp tục giữ vai trò then chốt trong mạng lưới tiêu thụ toàn bộ nhóm dệt may và các phân ngành liên quan tại khu vực Âu – Mỹ.
Xét ở mức độ phân ngành dệt may, trong 9 tháng năm 2025, đà tăng trưởng xuất khẩu ngành hàng sang khu vực Âu Mỹ vẫn dựa chủ yếu vào hàng dệt, may, đồng thời ghi nhận một số dịch chuyển đáng chú ý ở nguyên phụ liệu và xơ, sợi, trong khi vải mành, vải kỹ thuật khác suy giảm tại vài thị trường lớn.
Ở nhóm hàng dệt, may, mức tăng mạnh nhất tập trung tại các thị trường “vệ tinh” và một số đầu mối phân phối châu Âu và châu Mỹ tuy trị giá xuất khẩu không cao: Panama: tăng 106,43%, đạt 33,13 triệu USD; Argentina: tăng 85,75%, đạt 26,94 triệu USD; Thụy Điển: tăng 59,23%, đạt 115,20 triệu USD; Na Uy: tăng 40,06%, đạt 10,10 triệu USD.
Trong nhóm thị trường lớn truyền thống: Italy: tăng 18,33%, đạt 297,49 triệu USD; Vương quốc Anh: tăng 18,22%, đạt 664,22 triệu USD; Đức: tăng 17,68%, đạt 662,73 triệu USD. Những con số này cho thấy hàng dệt, may đang được hỗ trợ bởi cả các thị trường lõi (Đức, Italy, Anh) lẫn các thị trường vệ tinh có tốc độ tăng trưởng rất cao (Panama, Thụy Điển).
Đối với nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày, Hoa Kỳ là điểm sáng nổi bật với kim ngạch đạt 169,97 triệu USD, tăng 44,73%, cho thấy nhu cầu bổ sung đầu vào cho chuỗi cung ứng tại thị trường này cải thiện rõ rệt. Vương quốc Anh: đạt 9,23 triệu USD, tăng 24,32%; Hà Lan: đạt 16,04 triệu USD, tăng 8,34%; Đức: đạt 75,05 triệu USD, tăng 7,19%. Ngược lại, một số thị trường lớn khác ghi nhận đà giảm: Pháp: giảm 48,04%, còn 9,67 triệu USD; Argentina: giảm 29,13%, còn 21,57 triệu USD; Tây Ban Nha: giảm 15,67%, còn 4,03 triệu USD; Thụy Điển: giảm 15,53%, còn 3,47 triệu USD; Italy: giảm 4,76%, còn 30,55 triệu USD; Brazil: giảm nhẹ 3,55%, còn 1,91 triệu USD. Cơ cấu này hàm ý các trung tâm tiêu thụ lớn ở Bắc Mỹ (đặc biệt là Hoa Kỳ) đang gia tăng nhập khẩu đầu vào cho ngành dệt may, trong khi một phần nhu cầu ở Tây Âu điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn.
Ở phân ngành xơ, sợi dệt các loại: Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường tăng trưởng rõ rệt với kim ngạch 177,06 triệu USD, tăng 22,06%, tạo lực đỡ cho chuỗi giá trị từ sớm trong bậc thang sản xuất dệt may. Brazil có kim ngạch khoảng 40,37 triệu USD, tăng nhẹ 1,40%. Ngược lại, một số thị trường châu Âu giảm nhẹ ở nhóm đầu vào này: Italy: giảm 7,38%, đạt 14,43 triệu USD; Vương quốc Anh: giảm 4,20%, đạt 16,10 triệu USD. Điều này cho thấy khác biệt về nhu cầu nguyên liệu sợi giữa Bắc Mỹ (tăng) và một số thị trường châu Âu (điều chỉnh giảm).
Với phân ngành vải mành, vải kỹ thuật khác, bức tranh có sự phân hóa tại các thị trường lớn ở châu Mỹ: Canada: giảm 31,48%, còn 11,25 triệu USD; Hoa Kỳ: giảm 8,84%, còn 141,74 triệu USD; Brazil: tăng 27,30%, đạt 8,82 triệu USD. Đây là nhóm hàng có độ nhạy cao với các chu kỳ công nghiệp chuyên dụng và các nhu cầu kỹ thuật, do đó biến động theo từng thị trường là dễ thấy; kết quả hiện tại cho thấy Bắc Mỹ thận trọng hơn ở dòng sản phẩm kỹ thuật này, trong khi một số thị trường Mỹ Latinh (như Brazil) vẫn duy trì tăng trưởng.
Tình hình xuất khẩu mặt hàng Da giày, Túi xách
Bức tranh xuất khẩu Da giày, Túi xách của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025 tiếp tục phản ánh xu hướng phục hồi rõ rệt sau giai đoạn 2022–2023. Tổng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng Da giày, Túi xách sang khu vực Âu – Mỹ đạt khoảng 16,1 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Giày dép các loại: khoảng 13,6 tỷ USD, tăng 11,5%; Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù: khoảng 2,5 tỷ USD, tăng 9,3%.
Xét trên quy mô toàn cầu, xuất khẩu sang khu vực Âu – Mỹ chiếm khoảng 77,1% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam, trong khi tỷ trọng khu vực này đối với nhóm túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù đạt khoảng 78,0%. Điều này cho thấy Âu – Mỹ vẫn là cụm thị trường trụ cột trong chuỗi tiêu thụ sản phẩm Da giày, Túi xách của Việt Nam.
Giày dép các loại
Trong nhóm giày dép các loại, đà phục hồi thể hiện khá đồng đều ở các thị trường lớn, đồng thời xuất hiện thêm những “điểm sáng” tại khu vực châu Mỹ.
Hoa Kỳ tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng nhất, với kim ngạch xuất khẩu giày dép 9 tháng năm 2025 đạt khoảng 6,68 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2024. Đây vẫn là thị trường dẫn dắt xu hướng tiêu thụ giày dép của Việt Nam tại khu vực Âu – Mỹ.
Ở khu vực châu Mỹ ngoài Hoa Kỳ, một số thị trường ghi nhận mức tăng trưởng mạnh: Brazil đạt khoảng 174,5 triệu USD, tăng 32,9% so với cùng kỳ; Argentina đạt khoảng 131,6 triệu USD, tăng 102,2%, cho thấy sự phục hồi rõ rệt về nhu cầu đơn hàng.
Nhóm nước CPTPP khu vực Âu – Mỹ (bao gồm Vương quốc Anh, Canada, Mexico, Chile, Peru) tiếp tục là trụ cột quan trọng, đạt khoảng 1,98 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2024; nếu tính cả túi xách, tổng kim ngạch Da giày, Túi xách sang nhóm này đạt khoảng 2,25 tỷ USD, tăng 19,5%. Trong đó: Vương quốc Anh: khoảng 791,6 triệu USD, tăng 9,9%; Canada: khoảng 463,1 triệu USD, tăng 21,3%; Mexico: khoảng 532,2 triệu USD, tăng 48,6%; Chile: khoảng 126,1 triệu USD, tăng 21,5%; Peru: khoảng 70,4 triệu USD, tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tại khối EU-27, xuất khẩu giày dép của Việt Nam tăng ổn định, bám sát chu kỳ phục hồi tiêu dùng: Tổng kim ngạch giày dép sang EU-27 đạt khoảng 4,38 tỷ USD, tăng 9,1%, trong khi tổng kim ngạch toàn bộ nhóm Da giày, Túi xách sang EU-27 đạt khoảng 5,1 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2024.
Nhiều thị trường trụ cột ghi nhận cải thiện rõ rệt: Hà Lan đạt khoảng 1.327,5 triệu USD, tăng 12,4%; Đức đạt khoảng 530,9 triệu USD, tăng 0,9%; Italy đạt khoảng 417,7 triệu USD, tăng 39,6%; Tây Ban Nha đạt khoảng 394,3 triệu USD, tăng 4,4%; Ba Lan đạt khoảng 74,4 triệu USD, tăng 21,9%; Thụy Điển đạt khoảng 56,7 triệu USD, tăng 40,9%.
Bỉ là thị trường có diễn biến đi ngang, kim ngạch giày dép đạt khoảng 906,9 triệu USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ, phản ánh sự điều chỉnh theo chu kỳ đơn hàng tại một số hệ thống phân phối.
Nhìn chung, giày dép là phân khúc dẫn dắt tăng trưởng trong nhóm Da giày, Túi xách, với lực kéo chính đến từ Hoa Kỳ, cụm CPTPP Âu – Mỹ, và các thị trường EU-27 quy mô lớn như Hà Lan, Đức, Italy, Tây Ban Nha.
Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù
Đối với túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù, tăng trưởng được duy trì ở mức khá, mặc dù độ sôi động thấp hơn so với nhóm giày dép. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường chủ lực, với kim ngạch xuất khẩu túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù đạt khoảng 1,47 tỷ USD, tăng 12,7% so với 9 tháng năm 2024. Đây là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng xuất khẩu nhóm túi xách của Việt Nam sang Âu – Mỹ.
Khối EU-27 ghi nhận tổng kim ngạch túi xách khoảng 725,1 triệu USD, tăng 5,2%, trong đó: Hà Lan đạt khoảng 217,5 triệu USD, tăng 2,6%; Đức đạt khoảng 146,3 triệu USD, tăng 5,9%; Italy đạt khoảng 69,8 triệu USD, tăng 1,4%; Thụy Điển đạt khoảng 20,3 triệu USD, tăng 3,0%. Hà Lan và Đức tiếp tục đóng vai trò đầu mối phân phối và trung chuyển quan trọng cho nhóm hàng này tại châu Âu. Một số “điểm trũng” ghi nhận điều chỉnh giảm: Bỉ đạt khoảng 106,3 triệu USD, tăng 10,6% nhưng mức tăng dưới trung bình khu vực; Tây Ban Nha đạt khoảng 47,1 triệu USD, giảm 9,0% so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy sự phân hóa theo cấu trúc bán lẻ và chu kỳ đặt hàng của từng thị trường
Ở nhóm nước CPTPP khu vực Âu – Mỹ, tổng kim ngạch túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù đạt khoảng 263,1 triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ; trong đó: Vương quốc Anh: khoảng 91,9 triệu USD, tăng 1,6%; Canada: khoảng 137,1 triệu USD, tăng 2,7%; Mexico: khoảng 22,5 triệu USD, giảm 8,9%; Chile và Peru có mức tăng trưởng khá cao ở quy mô nhỏ, lần lượt khoảng 5,7 triệu USD (tăng 28,2%) và 5,9 triệu USD (tăng 44,5%).
- Dự báo
Triển vọng ngắn hạn quý IV/2025 và cả năm 2025
Bước vào quý IV/2025, bức tranh đơn hàng của ngành dệt may – da giày sang thị trường khu vực Âu Mỹ tương đối khả quan nhờ yếu tố mùa vụ. Nhu cầu mua sắm dịp lễ cuối năm tại các thị trường chủ lực (Giáng sinh, Năm mới 2026) dự kiến giúp duy trì lượng đơn hàng ổn định đến hết năm. Nhiều doanh nghiệp cho biết đã có đơn hàng sản xuất kín lịch tới hết năm và một số đã nhận đơn tới quý I/2026. Nhờ đó, ngành đặt mục tiêu cán đích đạt mục tiêu đề ra trong năm 2025 – tương ứng mức tăng khoảng 8-10% so với 2024. Mục tiêu này tuy khá thách thức nhưng khả thi nếu không có biến cố bất lợi thêm trong quý cuối năm. Sự kiện Black Friday và mùa mua sắm Giáng sinh ở Mỹ, EU thường đẩy mạnh nhập khẩu hàng may mặc, giày dép, dự kiến mang lại cú huých lớn trong tháng 11-12/2025.
Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố mùa vụ thuận lợi, ngành cũng phải đối mặt một số tác động tiêu cực trong ngắn hạn. Chính sách thuế mới của Mỹ là rủi ro lớn nhất: mức thuế phụ trội 10% (và 20% từ tháng 7/2025) khiến giá hàng Việt Nam tăng cao tại thị trường Mỹ. Thực tế trong quý III/2025, một số nhà nhập khẩu Mỹ đã trì hoãn đơn hàng để chờ kết quả đàm phán thuế; doanh thu của doanh nghiệp dệt may niêm yết như Thành Công đã giảm 18% trong quý III vì hiệu ứng tâm lý này. Sang quý IV, dù mức thuế được ấn định lại ở 20%, hàng loạt đơn hàng có biên lợi nhuận thấp có thể bị cắt giảm do nhà mua hàng không chấp nhận chia sẻ chi phí thuế. Theo Vitas, tăng trưởng xuất khẩu dệt may nửa cuối 2025 sẽ chậm lại so với nửa đầu năm một phần do tác động của gói thuế Mỹ. Mặt khác, lạm phát tại châu Âu duy trì ở mức cao (~5% trong tháng 10/2025) và niềm tin tiêu dùng suy yếu cũng có thể ảnh hưởng đến sức mua các sản phẩm không thiết yếu như quần áo, giày dép. Do đó, dự báo cầu dệt may có thể chững lại vào cuối 2025 và đầu 2026 sau mùa cao điểm lễ Tết. Một số nhà bán lẻ phương Tây hiện tồn kho khá cao, dự kiến sẽ giảm đặt hàng mới đầu năm 2026 để tiêu thụ hàng tồn
Tóm lại, quý IV/2025 ngành vẫn kỳ vọng tăng trưởng nhờ mùa lễ hội, nhưng cần thận trọng với các dấu hiệu giảm tốc từ thị trường, đặc biệt là nếu căng thẳng thương mại Mỹ – Trung hoặc diễn biến chính sách tiền tệ ở Mỹ, EU có biến động bất ngờ.
Kịch bản trung hạn
Trong trung hạn, xuất khẩu dệt may, da giày Việt Nam có hai kịch bản phát triển rõ nét, tùy thuộc vào năng lực cải thiện năng suất – công nghệ của ngành cũng như bối cảnh thương mại quốc tế:
Kịch bản tích cực (tăng trưởng “sâu”): Ngành duy trì được đà tăng trưởng cao nhờ nâng năng suất và đổi mới công nghệ mạnh mẽ. Doanh nghiệp chuyển đổi thành công sang mô hình sản xuất thông minh, tự động hóa nhiều khâu, giúp năng suất lao động tăng đều 8-10%/năm. Cùng với đó, nhờ đầu tư công nghệ và R&D, nhiều công ty Việt Nam vươn lên nắm khâu thiết kế, phát triển sản phẩm (ODM) thay vì chỉ gia công, qua đó nâng giá trị gia tăng và biên lợi nhuận. Về chuỗi cung ứng, Việt Nam thu hút thêm vốn FDI vào dệt nhuộm và công nghiệp phụ trợ, hình thành các cụm công nghiệp nguyên liệu ở miền Bắc và miền Nam. Nhờ đó, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu tăng lên trên 50-60%, giúp doanh nghiệp chủ động hơn và đáp ứng quy tắc xuất xứ FTA. Trong kịch bản này, Việt Nam tận dụng tối đa các hiệp định như CPTPP, EVFTA: từ 2027, nhiều mặt hàng dệt may vào EU hưởng thuế 0%, tạo lợi thế cạnh tranh lớn trước các đối thủ ngoài EVFTA. Song song, ngành thích ứng tốt với tiêu chuẩn xanh quốc tế: đa số nhà máy đạt chứng chỉ xanh (LEED, Higg Index), giảm phát thải theo yêu cầu của EU, Mỹ. Do đó, hàng Việt tiếp cận thuận lợi các thị trường cao cấp, củng cố vị thế top 3 xuất khẩu thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 2026-2030 có thể duy trì mức 2 chữ số (khoảng 12-15%/năm). Theo chiến lược Chính phủ, nếu thuận lợi, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may, da giày ra toàn thế giới có thể đạt 106 – 108 tỷ USD vào năm 2030 (tương đương gấp ~1,5 lần mức năm 2025). Khi đó, Việt Nam sẽ tiến gần mục tiêu trở thành trung tâm dệt may, thời trang của khu vực châu Á.
Kịch bản tiêu cực (tăng trưởng chậm): Ngược lại, nếu ngành không giải quyết được các điểm nghẽn về năng suất và nguyên liệu, tăng trưởng xuất khẩu có thể chững lại đáng kể. Kịch bản này xảy ra khi doanh nghiệp chậm đổi mới, năng suất lao động tăng rất thấp (~1-2%/năm), dẫn đến chi phí đơn vị cao và giảm sức cạnh tranh về giá. Thêm vào đó, đầu tư dệt nhuộm trong nước trì trệ do vướng vốn và môi trường, khiến Việt Nam tiếp tục phụ thuộc >60% nguyên liệu nhập khẩu. Hệ quả là hàng Việt không đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế từ các FTA mới, bỏ lỡ “cơ hội vàng” từ hệ thống các FTA rộng lớn. Trong khi đó, yêu cầu môi trường càng lúc càng khắt khe, nếu phần lớn doanh nghiệp không nâng cấp kịp thì sẽ mất đơn hàng vào tay các nước đã dần “xanh hóa” sản xuất (như Bangladesh, Ấn Độ). Đồng thời, xu hướng gần thị trường (nearshoring) tăng mạnh: EU chuyển đơn hàng về Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi; Mỹ tăng nhập từ Mỹ Latinh để rút ngắn chuỗi cung ứng. Việt Nam có nguy cơ bị thu hẹp thị phần nếu không kịp thích ứng. Ngoài ra, tình trạng thiếu lao động tay nghề cao tiếp diễn cũng kìm hãm tăng trưởng. Với kịch bản này, tốc độ tăng kim ngạch có thể rơi xuống mức một chữ số (~3-5%/năm) sau 2025. Quy mô xuất khẩu dệt may ra thế giới năm 2030 dự báo chỉ đạt khoảng 68-70 tỷ USD– thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Vị trí của Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu có thể tụt xuống, khi các đối thủ mới nổi (Myanmar, châu Phi) giành thị phần nhờ lao động rẻ. Kịch bản này đòi hỏi ngành phải “thay đổi hoặc là chết” – nếu không sẽ mắc kẹt ở phân khúc gia công giá thấp và tăng trưởng chậm dần.
Tóm lại, trung hạn 5-10 năm tới, cơ hội và thách thức đan xen. Việt Nam có dư địa mở rộng xuất khẩu nếu tận dụng được các lợi thế FTA và xu hướng dịch chuyển đơn hàng khỏi Trung Quốc. Song để biến cơ hội thành hiện thực, ngành dệt may, da giày cần những bước chuyển mình mạnh mẽ về năng suất, công nghệ và phát triển bền vững. Kịch bản tăng trưởng cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực nội tại của ngành cũng như môi trường chính sách hỗ trợ trong thời gian tới.
Việt Thành


