Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp dệt may, da giày, túi xách trong nước với thuế quan đối ứng từ Hoa Kỳ

23.07.2025

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may và các sản phẩm liên quan của Việt Nam vào các thị trường khu vực Âu – Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 21,6 tỷ USD, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu hàng dệt, may đạt 18.,4 tỷ USD, tăng 12,39%; nguyên phụ liệu dệt, may & da, giày đạt 1,1 tỷ USD, tăng 9,87%; xơ, sợi dệt các loại đạt 1.,9 tỷ USD, giảm 3,39%; vải mành, vải kỹ thuật khác đạt 253,7 triệu USD, giảm 2,17%. Cùng với đó, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng da giày và túi xách của Việt Nam vào các thị trường khu vực Âu – Mỹ trong nửa đầu năm 2025 đạt 13,9 tỷ USD, tăng 10,47% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, mặt hàng giày dép các loại đạt 11,7 tỷ USD, tăng 10,24%; ngành hàng túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù đạt 2,1 tỷ USD, tăng 11,81% so với cùng kỳ năm trước. Tổng cộng toàn bộ nhóm hàng dệt may, da giày xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Âu – Mỹ trong nửa đầu năm 2025 đạt 35,5 tỷ USD, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm trước.

Nhiều tín hiệu tích cực trong xuất khẩu dệt may, da giày sang khu vực Âu – Mỹ

Tình hình xuất khẩu mặt hàng dệt may

Tình hình xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam sang khu vực châu Âu – châu Mỹ tiếp tục ghi nhận đà tăng trưởng tích cực. Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam ra thế giới trong nửa đầu năm 2025 đạt 21,66 tỷ USD, tăng 10,48% so với cùng kỳ năm 2024 (19,61 tỷ USD). Trong đó, tỉ trọng xuất khẩu của khu vực Âu – Mỹ chiếm 54,60% tổng kim ngạch của thế giới (so với 52,07% cùng kỳ 2024), cho thấy nhu cầu tại các thị trường trong khu vực trọng điểm tiếp tục duy trì ổn định, tích cực.

Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam, đạt 8,79 tỷ USD, tương đương 40,58% tổng giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam ra thế giới; tăng 17,02% so với cùng kỳ 2024 (7,51 tỷ USD). Xuất khẩu sang khối EU-27 đạt 2,12 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 9,81%), tăng 15,69% so với cùng kỳ 2024 (1,84 tỷ USD). Nhóm CPTPP tại khu vực Âu – Mỹ (bao gồm Vương quốc Anh, Canada, Mexico, Chile, Peru) đạt 1,22 tỷ USD, tăng 10,82% so với cùng kỳ và hiện chiếm 5,61% tổng xuất khẩu dệt may của Việt Nam ra thế giới.

 

Tại khối EU-27, một số thị trường chủ chốt ghi nhận mức tăng trưởng tích cực: Tây Ban Nha tăng 14,72% (đạt 293,48 triệu USD), Hà Lan tăng 11,92% (647,49 triệu USD). Số liệu xuất khẩu sang Bỉ gần như đi ngang (giảm nhẹ 1,31%, 204,20 triệu USD). Một số thị trường có tăng trưởng đột biến tích cực: Thụy Điển tăng 73,02% (76,61 triệu USD), Đan Mạch tăng 10,97% (31,34 triệu USD).

Ở nhóm CPTPP Âu – Mỹ, Vương quốc Anh đạt 452,5 triệu USD (+22,98%), Canada 593,6 triệu USD (+2,23%), Mexico 104,1 triệu USD (+10,59%), Chile 51,2 triệu USD (+16,19%), Peru 13,5 triệu USD (+42,65%).

Xét theo cơ cấu vùng thị trường toàn cầu, xuất khẩu hàng dệt may sang khu vực Âu – Mỹ hiện chiếm 54,60% tổng xuất khẩu dệt may của Việt Nam, trong khi xuất khẩu sang các thị trường châu Á – châu Phi chiếm 43,88%, giảm so với cùng kỳ 2024 (46,45%). Điều này cho thấy, trong khi đà tăng ở Âu – Mỹ đang cao hơn bình quân chung, tỉ trọng của khu vực Á – Phi giảm tương ứng trong cơ cấu tiêu thụ toàn cầu của dệt may Việt Nam.

Tình hình xuất khẩu mặt hàng Da giày, Túi xách

          Bức tranh xuất khẩu Da giày, Túi xách của Việt Nam trong nửa đầu năm 2025 tiếp tục phản ánh xu hướng phục hồi rõ rệt sau giai đoạn 2022–2023. Tỷ trọng xuất khẩu ngành hàng sang khu vực Âu – Mỹ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam đạt mức cao, khẳng định vai trò của các thị trường chủ lực trong chuỗi cung ứng toàn cầu: riêng giày dép khu vực này chiếm 73,43% tổng kim ngạch của Việt Nam ra thế giới, còn túi xách đạt 74,11%.

          Giày dép các loại

          Trong nhóm giày dép các loại, đà phục hồi thể hiện đồng đều ở các thị trường lớn. Hoa Kỳ tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng nhất khi kim ngạch đạt 4,35 tỷ USD, tăng 12,82% so với cùng kỳ năm 2024, qua đó giữ vững vị thế thị trường dẫn dắt. Ở khu vực châu Mỹ, nhiều điểm sáng mới nổi bổ sung xung lực tích cực cho xuất khẩu: Brazil đạt 115,0 triệu USD, tăng 33,78%, còn Argentina đạt 90,1 triệu USD, tăng 129,21%. Cùng với đó, khối CPTPP trong khu vực Âu – Mỹ (bao gồm cả Vương quốc Anh) ghi nhận mức tăng hai chữ số với kim ngạch 1,33 tỷ USD, tăng 22,90%; trong đó Anh đạt 541,31 triệu USD (tăng 12,24%), Canada 317,74 triệu USD (tăng 21,15%), Mexico 347,63 triệu USD (tăng 49,04%), Chile 81,50 triệu USD (tăng 17,50%) và Peru 46,62 triệu USD (tăng 19,70%).

          Tại khối EU-27, xuất khẩu giày dép của Việt Nam tăng ổn định theo chu kỳ, với tổng kim ngạch đạt 2,64 tỷ USD, tăng 10,67% so với 2,38 tỷ USD cùng kỳ 2024. Nhiều thị trường trụ cột ghi nhận cải thiện rõ rệt: Hà Lan đạt 888,99 triệu USD (tăng 12,58%), Đức 379,55 triệu USD (tăng 2,42%), Italy 287,26 triệu USD (tăng 53,09%). Một số thị trường duy trì tăng trưởng tích cực như Tây Ban Nha (271,61 triệu USD, tăng 7,96%), Ba Lan (51,89 triệu USD, tăng 25,81%), Thụy Điển (42,89 triệu USD, tăng 45,92%), trong khi Bỉ gần như đi ngang (628,37 triệu USD, tăng 0,32%).

          Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù

          Đối với túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù, tăng trưởng được duy trì ở mức khá, dù mức độ sôi động thấp hơn nhóm giày dép. Hoa Kỳ ghi nhận kim ngạch 938,73 triệu USD, tăng 17,87% so với 796,40 triệu USD cùng kỳ năm trước, tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu túi xách của Việt Nam.

          EU-27 đạt 433,85 triệu USD, tăng 7,82% so với 402,37 triệu USD; trong đó một loạt thị trường chủ chốt tăng hai chữ số như Đức (98,94 triệu USD, tăng 17,03%), Italy (47,39 triệu USD, tăng 9,31%), Thụy Điển (14,70 triệu USD, tăng 12,61%), còn Hà Lan tăng 7,83% lên 151,34 triệu USD. Một vài điểm trũng xuất hiện tại Bỉ (70,37 triệu USD, giảm 0,21%) và Tây Ban Nha (32,39 triệu USD, giảm 7,14%), phản ánh sự phân hóa theo cấu trúc bán lẻ và chu kỳ đặt hàng của từng thị trường.

          Ở nhóm nước CPTPP khu vực Âu – Mỹ, tổng kim ngạch 171,32 triệu USD tăng 1,08% so với 169,49 triệu USD; diễn biến phân hóa khi Anh tăng 2,49% lên 59,31 triệu USD, Chile và Peru tăng mạnh lần lượt 32,34% và 29,75%, trong khi Canada gần như đi ngang (−0,21%) và Mexico giảm 6,32%.

          Tổng hợp hai nhóm hàng cho thấy nhu cầu tại Âu – Mỹ vẫn đóng vai trò then chốt cho xuất khẩu Da giày, Túi xách của Việt Nam. Sự phục hồi vững chắc tại Hoa Kỳ và nhịp tăng đều của EU-27, cộng hưởng với hiệu ứng tích cực trong khối CPTPP, đang giúp doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa đích đến, cải thiện độ bền vững dòng đơn hàng. Trong bối cảnh chi phí vốn và tiêu dùng toàn cầu còn biến động, cấu trúc thị trường hiện tại – với “đầu tàu” Mỹ, nền tảng EU-27 và vành đai CPTPP – là nền tảng thuận lợi để duy trì đà tăng trong các quý tiếp theo, đồng thời tạo dư địa cho các thị trường ngách ở Mỹ Latinh bứt tốc hỗ trợ tăng trưởng.

  1. Đánh giá và dự báo

Sau nửa đầu năm 2025, xuất khẩu dệt may – da giày của Việt Nam sang khu vực Âu – Mỹ tiếp tục giữ nhịp tăng nhưng đối diện một “điểm bẻ cong” chính sách quan trọng: sắc lệnh của Hoa Kỳ điều chỉnh thuế đối ứng, trong đó mức áp với Việt Nam là 20% có hiệu lực từ ngày 7/8/2025. Diễn biến này ngay lập tức củng cố xu hướng “đẩy nhanh giao hàng” đã xuất hiện từ quý I, khi các nhà mua hàng khẩn trương chốt lịch, yêu cầu giao trước mốc chính sách để tối ưu chi phí. Theo thông báo của các doanh nghiệp đầu ngành, hàng đã lên tàu trước 00:01 ngày 07/8 và thông quan trước 00:01 ngày 05/10 (giờ Hoa Kỳ) vẫn được hưởng mức thuế cũ, trong khi một số lô trung chuyển có nguy cơ chịu thuế bổ sung tới 40%. Nhờ vậy, phần doanh thu đã “đặt chỗ” cho quý III cơ bản bám kế hoạch; song kể từ quý IV, cấu trúc giá và điều khoản thương mại sẽ phải tái thương lượng theo mặt bằng thuế mới, trong bối cảnh sức mua của người tiêu dùng Mỹ tiềm ẩn suy giảm do giá bán lẻ nhóm hàng liên quan đồng loạt nhích lên.

Tác động thuế đối ứng không diễn ra đơn lẻ mà tương tác với các ràng buộc tuân thủ vốn đã siết chặt. Đạo luật Phòng chống Lao động Cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ, Hoa Kỳ (UFLPA) vẫn được thực thi nghiêm khắc đối với toàn bộ chuỗi bông – sợi – vải; bất kỳ “khoảng trống dữ liệu” nào trong hồ sơ truy xuất nguồn gốc đều có thể khiến lô hàng bị lưu kho hoặc bác nhập, làm “bốc hơi” lợi thế giá mà doanh nghiệp vừa tạo được khi đàm phán. Nói cách khác, ở thị trường Mỹ, lợi thế thuế tương đối trước mắt chỉ có thể chuyển hóa thành lợi thế cạnh tranh bền vững khi doanh nghiệp chứng minh được tính toàn vẹn dữ liệu xuất xứ ở cấp lô hàng, từ nguồn cotton và quá trình kéo sợi, dệt – nhuộm cho tới khâu hoàn tất. Song hành với đó, các biện pháp thuế quan mà Hoa Kỳ áp dụng đối với nguồn cung từ Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò “bộ lọc” thị trường: chúng dịch chuyển đơn hàng ra khỏi Trung Quốc, mở “khoảng trống” cho Việt Nam nhưng đồng thời nâng trần yêu cầu tuân thủ đối với nhà cung ứng thay thế.

Tại châu Âu, “luật chơi” vẫn đang chuyển dịch mạnh mẽ từ tốc độ và chi phí sang thiết kế sinh thái, tuần hoàn và minh bạch dữ liệu. Chiến lược Dệt may Bền vững & Tuần hoàn của EU đặt ra khung tiêu chí sản phẩm phải bền, có khả năng sửa chữa – tái chế và kiểm soát hóa chất; Quy định Thiết kế Sinh thái cho Sản phẩm Bền vững (ESPR) kéo theo Hộ chiếu Sản phẩm Số cho dệt may (DPP) theo lộ trình triển khai từ giai đoạn 2027; cơ chế Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đối với dệt may (EPR) và Quy định về Bao bì và Chất thải Bao bì (PPWR) buộc doanh nghiệp gánh một phần chi phí vòng đời sản phẩm, từ thu gom đến tái chế. Với nhà xuất khẩu Việt Nam, điều này buộc phải “đặt lại kiến trúc sản phẩm”: vật liệu có hồ sơ vòng đời đáng tin cậy, hóa chất được kiểm soát, bao bì tối ưu cho tái chế; đồng thời năng lực dữ liệu nội bộ đủ để cung cấp thông tin cấp sản phẩm theo định dạng mà nhãn hàng và cơ quan quản lý yêu cầu. Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là lợi thế thuế quan quan trọng, nhưng chỉ được “mở khóa” khi đáp ứng quy tắc xuất xứ ở mức “từ sợi”/“từ vải” và sẵn sàng về dữ liệu DPP.

Trong bối cảnh đó, bức tranh cơ hội – thách thức của ngành thể hiện rõ hai chiều. Về cơ hội, dịch chuyển chuỗi cung ứng theo hướng “Trung Quốc+1” tiếp diễn, giúp Việt Nam giữ vị thế điểm đến ưu tiên; các FTA (Hiệp định thương mại tự do) như EVFTA, CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và UKVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Vương quốc Anh) tiếp tục là bệ đỡ thuế quan trung hạn; mặt bằng giá bông ổn định tạo nền chi phí đầu vào dễ dự báo hơn cho chu kỳ 2026. Về thách thức, thuế đối ứng tại Mỹ có thể làm chững nhịp tiêu thụ một số phân khúc nhạy cảm giá; rủi ro tuân thủ theo UFLPA khiến chi phí “quản trị xuất xứ” trở thành khoản cố định mới; tiêu chuẩn xanh – tuần hoàn tại EU kéo theo đầu tư ban đầu đáng kể cho xử lý môi trường, đo lường tác động vòng đời và số hóa dữ liệu; còn tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu trong nước vẫn là nút thắt khi đặt cạnh yêu cầu quy tắc xuất xứ của các FTA.

Với doanh nghiệp, chiến lược ứng phó cần chuyển từ “giữ đơn giá – chạy tiến độ” sang “giữ dữ liệu – quản trị rủi ro chính sách”. Ở thị trường Mỹ, mỗi hợp đồng nên đi kèm một bộ hồ sơ “sẵn sàng cho UFLPA” theo thực hành tốt nhất: chứng nhận nguồn cotton an toàn; chuỗi chứng từ liên tục (chain of custody) cho sợi – vải – hoàn tất; bằng chứng kiểm soát hóa chất và điều kiện lao động tại nhà cung cấp bậc cao. Các danh mục có nguy cơ truy xuất gắt gao có thể dịch chuyển có chọn lọc sang vật liệu ít rủi ro hơn (ví dụ polyester tái chế, pha trộn sinh học) để giảm phụ thuộc cotton, song song đa dạng hóa điểm cung bông từ các đối tác có tín nhiệm. Ở châu Âu, lộ trình “sẵn sàng cho DPP” cần bắt đầu ngay trên các dòng sản phẩm chủ lực: chuẩn hóa danh mục vật liệu ở dạng số (BOM), đo vết vòng đời (LCA), cấu hình bao bì phù hợp PPWR và thiết lập cổng dữ liệu chia sẻ với khách hàng. Về thị trường, nên duy trì đa dạng hóa thị trường, nhưng nâng tỷ trọng phân khúc có may kỹ thuật như sportswear, workwear, vật liệu bền vững cho giày dép và các gói dịch vụ FOB/ODM để nắm dài hơn chuỗi giá trị, bù đắp chi phí tuân thủ gia tăng.

Ở tầm hệ thống, những gì doanh nghiệp cần để “chạy nhanh hơn” là hạ tầng mềm của ngành. Một trung tâm hỗ trợ tuân thủ dùng chung, cung cấp mẫu hồ sơ và chuẩn dữ liệu cho UFLPA, DPP và REACH (Quy định đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế hóa chất của EU), sẽ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hẹp khoảng cách chi phí. Các cụm dệt – nhuộm – hoàn tất “xanh”, với hạ tầng xử lý nước thải, năng lượng tái tạo và cơ chế ưu đãi tín dụng xanh cho đầu tư chiều sâu, là điều kiện cần để nâng tỷ lệ nội địa hóa, từ đó thực sự tận dụng được ưu đãi thuế quan của EVFTA/CPTPP/UKVFTA... Cùng với đó, một cơ chế cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại ở các thị trường trọng điểm sẽ giúp doanh nghiệp xoay trục danh mục và thị trường trước khi rủi ro trở thành thiệt hại.

Tóm lại, sắc lệnh thuế đối ứng của Hoa Kỳ là phép thử bản lĩnh quản trị của ngành: nó vừa là lực cản ngắn hạn lên giá bán và nhu cầu, vừa là bộ lọc giúp các nhà cung ứng có năng lực tuân thủ vươn lên nấc cạnh tranh cao hơn. Cánh cửa FTA vẫn mở, nhưng chỉ doanh nghiệp “đi cùng dữ liệu” mới bước qua được ngưỡng chuẩn mực mới. Nếu coi truy xuất nguồn gốc là trụ cột, coi thiết kế sinh thái – tuần hoàn là tiêu chuẩn, và coi nội địa hóa nguyên phụ liệu sạch là hướng đi chiến lược, dệt may – da giày Việt Nam không chỉ giảm chấn trước “cú sốc thuế” của 2025 mà còn đặt nền cho chu kỳ tăng trưởng bền vững hơn trong giai đoạn 2026–2030.

Việt Thành

In bài Share