Xuất khẩu sang thị trường Vương quốc Anh: Chiến lược và cách tìm kiếm thông tin
Sau hơn 3 năm thực thi, những kết quả tích cực Hiệp định UKVFTA mang lại đối với hoạt động thương mại, đầu tư giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và Vương Quốc Anh đã được khẳng định rõ ràng. Đặc biệt, trong bối cảnh trao đổi thương mại của Việt Nam với hầu hết các thị trường xuất khẩu trọng điểm tại sụt giảm do căng thẳng địa chính trị và những khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Vương quốc Anh là một điểm sáng.
Hiện nay mặt hàng tôm đang chiếm 70% tổng kim ngạch mà xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Anh
Những tác động quan trọng đến hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Vương quốc Anh
Hiệp định UKVFTA đã trở thành cầu nối đưa hàng hoá thế mạnh của Việt Nam sang thị trường Anh, giúp gia tăng kim ngạch thương mại song phương. Đặc biệt, theo ghi nhận, sự hiện diện các thương hiệu hàng hoá Việt Nam khác nhau theo nhóm mặt hàng, đạt từ 12% - 19%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dệt may, da giày, các loại cơ khí, thuỷ sản, trong đó hưởng lợi nhiều là dệt may, da giày, nông thuỷ sản.
Với lộ trình cắt giảm thuế quan của Hiệp định UKVFTA, hàng hóa Việt Nam đang dần có ưu thế nổi trội so với sản phẩm cùng lại từ các quốc gia khác chưa có FTA với Anh.
Tại Tọa đàm “Xuất khẩu sang thị trường Vương quốc Anh: Chiến lược và cách tìm kiếm thông tin” do Tạp chí Công Thương tổ chức, ông Vũ Việt Thành – đại diện Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ - cho biết, kể từ năm 2021, Hiệp định UKVFTA có hiệu lực đã trở thành động lực hết sức quan trọng, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư này lên một tầm cao mới. Có 5 tác động quan trọng liên quan đến hợp tác thương mại, đầu tư giữa hai bên.
Tác động đầu tiên là lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh được hưởng lợi rất nhiều từ Hiệp định UKVFTA.
Theo ông Thành, sau hơn 3 năm triển khai thực thi hiệp định, xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh tăng trưởng liên tục và ổn định. Tuy nhiên cũng có những thời kỳ rất khó khăn của xuất khẩu Việt Nam ra thế giới, ví dụ trong thời kỳ Covid-19 hay giai đoạn cuối năm 2023. Cuối năm 2023, có thể thấy xuất khẩu của Việt Nam sang hầu hết các thị trường mũi nhọn ở khu vực Châu Âu giảm chưa từng có tiền lệ, đều giảm ở mức hai con số. Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sang Anh vẫn duy trì được đà tăng trưởng ổn định.
“Nếu tính trong cả 3 năm thực thi Hiệp định UKVFTA, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước tăng trưởng trung bình 8,9%/năm, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh tăng trưởng trung bình 9,4%/năm”- ông Thành nhận định và đánh giá đây là mức tăng trưởng cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng chung của xuất khẩu Việt Nam.
Mặt khác, Hiệp định UKVFTA với các lệnh gỡ bỏ thuế quan triệt để cũng góp phần quan trọng để nâng cao thị phần của một số nhóm hàng có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường Vương quốc Anh.
Theo số liệu tổng hợp được từ ITC's Trade Map, hiện nay có một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam đang đứng đầu phân khúc thị trường Anh. Ví dụ, sản phẩm tiêu, hạt điều tách vỏ, giày dép, cà phê; thủy sản đang đứng ở vị trí thứ 5 và may mặc đang đứng ở vị trí thứ 6. Trong năm 2023 vừa qua, với những nỗ lực của rất nhiều những cơ quan hữu quan trong nước đã đưa một số mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu chính ngạch của thị trường Anh, ví dụ một số loại hoa quả, cam, quýt, bưởi, vải, sầu riêng.
Cùng với đó chúng ta cũng kiên trì làm việc với nỗ lực rất lớn của Thương vụ Việt Nam tại Anh, đã giúp cho sản phẩm thanh long của Việt Nam tiếp tục được lưu thông bình thường trên thị trường.
Tác động thứ hai là Hiệp định UKVFTA giúp tăng trưởng xuất khẩu một số mặt hàng của Anh vào Việt Nam. Cụ thể là các mặt hàng có hàm lượng công nghệ khoa học rất cao cũng như nguồn nguyên liệu đầu vào chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như các sản phẩm máy móc, ô tô, hóa chất cơ bản, y tế, dược phẩm.
Tác động thứ ba, về lĩnh vực đầu tư, có thể thấy tác động của nguồn vốn đầu tư của Vương quốc Anh vào Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có sự cải thiện rõ rệt.
Nếu tính chung trong mối quan hệ thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam trong hơn 3 năm vừa qua, Vương quốc Anh là một điểm sáng với sự tăng trưởng các dự án đầu tư rất tích cực. Trong hơn 3 năm vừa qua, tổng số dự án đăng ký của Vương quốc Anh vào Việt Nam tăng hơn gấp rưỡi từ mức 380 dự án vào cuối năm 2020 lên 584 án sau 9 tháng đầu năm 2024 với tổng số vốn là 4,5 tỷ USD. Các dự án đầu tư của Vương quốc Anh vào Việt Nam trải khắp trong rất nhiều lĩnh vực quan trọng từ công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ tài chính, ngân hàng, năng lượng tái tạo, y tế, dược phẩm...
Tác động thứ tư là tác động tích cực về mặt thể chế. Theo ông Thành, Hiệp định UKVFTA góp phần giúp Việt Nam cải cách thể chế trong rất nhiều lĩnh vực thương mại, đầu tư và phát triển bền vững, mua sắm công, dịch vụ thương mại... Điều này tạo ra không gian phát triển, nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển của hai nước trong tương lai.
Tác động thứ năm, cũng là một tác động quan trọng, đó là ở góc độ doanh nghiệp. Hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng rất tốt ưu đãi thuế quan từ Hiệp định UKVFTA thông qua.
Ông Thành cho biết, tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi theo mẫu của Hiệp định này hiện nay ở mức trên 30%, nghĩa là tăng trưởng ổn định dần đều qua các năm, cũng như một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành hơn rất nhiều trong việc tiếp cận thị trường, đưa hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Anh, đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao về tiêu dùng xanh, phát triển bền vững, nâng cao trách nhiệm của người sản xuất cũng như tham gia vào chuỗi cung ứng, qua đó có thể tận dụng lâu dài lợi ích từ hiệp định này trong thời gian tới.
Là một trong những ngành hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam vào Vương quốc Anh và cũng là 1 trong những mặt hàng được hưởng ưu đãi thuế quan khi Hiệp định UKVFTA có hiệu lực, ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) – chia sẻ, lợi thế mà FTA mang lại đó là ngay khi Hiệp định giữa Việt Nam và Anh có hiệu lực thì những mặt hàng chính của ngành hàng chúng tôi có dòng thuế nhập khẩu đã chuyển về 0% ngay, như tôm, cá tra. Hiện nay mặt hàng tôm đang chiếm 70% tổng kim ngạch mà xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Anh và tiếp theo là mặt hàng cá tra cũng vậy, chiếm 20%.
“Hai mặt hàng chủ lực này đã chiếm 90% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu trung bình trong ba năm vừa qua, khoảng 300 - 350 triệu USD trong một năm, tức là chiếm khoảng 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của thủy sản Việt Nam ra toàn cầu”- ông Nam cho biết thêm.
Cần có chiến lược và cách tìm kiếm thông tin thị trường
Chia sẻ về việc tiếp cận thông tin thị trường của doanh nghiệp Việt Nam, ông Nguyễn Cảnh Cường - Cựu tham tán công sứ tại Anh – cho hay, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng năng động, đặc biệt những doanh nghiệp trẻ, có những kỹ năng mới về công nghệ số, tiếp thị trên các nền tảng dựa trên kỹ thuật số, giúp việc tìm kiếm thông tin nhanh hơn và nhiều hơn so với các phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng đạt được trình độ và hiệu quả như những doanh nghiệp được tăng trưởng xuất khẩu sang Anh. Nhiều doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu, tìm kiếm thông tin thị trường, kể cả những thông tin cơ bản nhất. Một số doanh nghiệp Việt Nam có sản phẩm tốt nhưng không có phương pháp tiếp cận thị trường.
“Doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế trong việc tìm kiếm và phân tích thông tin. Trong khi nguồn thông tin miễn phí về doanh nghiệp Anh đều có trên trang companieshouse.gov.uk”- ông Nguyễn Cảnh Cường chỉ rõ và cho biết thêm, đã từng chứng kiến doanh nghiệp Việt Nam suốt mười năm làm việc cùng một đối tác "thuận buồm xuôi gió". Khi tin tưởng cho bạn giao hàng trước trả tiền sau thì đối tác sắp phá sản, doanh nghiệp tự đưa mình vào tình huống rủi ro rất cao.
Do đó, theo ông Cường không nên coi nhẹ việc kiểm tra tình trạng tài chính của đối tác, kể cả đối tác truyền thống.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước, ông Vũ Việt Thành, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương) cũng khuyến cáo, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Vương quốc Anh cần phải tra cứu kỹ lưỡng thông tin về thị trường, doanh nghiệp, đối tác, tránh trường hợp bị lừa đảo, gian lận.
Mặt khác, doanh nghiệp cần kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quy trình sản xuất, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm…; xác định rõ phân khúc thị trường; nghiên cứu chuyên sâu về thị hiếu, xu hướng thị trường.
Hữu Hưng