Thời trang, đồ gỗ, nội thất Việt gia nhập hệ thống phân phối quốc tế
Hội thảo "Đưa hàng thời trang, nội thất và gia dụng Việt Nam vào hệ thống phân phối nước ngoài" do Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ thuộc Bộ Công Thương, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, chiều 15/9.
Sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Thời trang, đồ gỗ và nội thất là những ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhưng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về thị trường.
Làm thế nào để những sản phẩm may mặc, đồ gỗ nội thất Việt gia nhập vào hệ thống phân phối của những "gã khổng lồ" là nội dung được các chuyên gia chia sẻ tại Hội thảo "Đưa hàng thời trang, nội thất và gia dụng Việt Nam vào hệ thống phân phối nước ngoài" do Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ thuộc Bộ Công Thương, tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, chiều 15/9.
Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ thuộc Bộ Công Thương, thông tin trong những năm qua, nhóm mặt hàng thời trang, nội thất và đồ gia dụng của Việt Nam có mức tăng trưởng ấn tượng. Năm 2022, hai ngành dệt may và da giày chứng kiến đà tăng trưởng xuất khẩu cao nhất từ trước tới nay; trong đó, dệt may đạt 37,5 tỷ USD, tăng 14,3%; da giày đạt 23,9 tỷ USD, tăng 34,3% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sản phẩm gỗ vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành nội thất và đồ gia dụng cũng đạt 10,9 tỷ USD.
Nếu nhìn một cách tổng quát, nhóm các mặt hàng thời trang, nội thất và đồ gia dụng của Việt Nam hiện vẫn có nhiều lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là về chất lượng sản phẩm, trình độ kỹ thuật, khả năng đáp ứng các yêu cầu khắt khe về lao động, môi trường, nhất là các ưu đãi thuế quan từ 15 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) song phương và khu vực hiện có với nhiều đối tác trên thế giới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Vương quốc Anh (UKVFTA)… Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 2 về da giày, thứ 3 về dệt may và thứ 5 thế giới về gỗ và sản phẩm từ gỗ.
Tuy vậy sau thời kỳ phục hồi mạnh mẽ hậu COVID-19, nhóm ngành hàng thời trang và đồ gia dụng của Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có về xuất khẩu. Nguyên nhân chủ yếu do tình hình lạm phát, nguy cơ suy thoái kinh tế, sức tiêu dùng suy giảm, đặc biệt với nhóm vật dụng không thiết yếu cùng lượng tồn kho khá lớn sau thời kỳ nhập hàng để phòng ngừa đứt gãy chuỗi cung ứng.
Trong 8 tháng năm 2023, nhóm hàng thời trang bao gồm dệt may và da giày, kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường trọng điểm chứng kiến đà sụt giảm tương đối mạnh. Thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của dệt may và da giày Việt Nam là Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu lần lượt giảm 22,7% và 32% so với cùng kỳ.
[Các sản phẩm nội thất Việt Nam đắt khách tại thị trường Pháp]
Thị trường EU cũng chứng kiến đà giảm tốc xuất khẩu tương tự, khi kim ngạch xuất khẩu da giày giảm 19%, thị trường dệt may có tín hiệu tích cực hơn khi tăng trưởng 12,3%. Xuất khẩu ngành hàng gỗ và đồ gỗ sang Hoa Kỳ và EU đối mặt với tình trạng thậm chí còn ảm đạm hơn, lần lượt giảm 27% và 40% trong 8 tháng năm 2023.
Theo ông Tạ Hoàng Linh, thời gian qua, các thị trường xuất khẩu trọng điểm của nhóm ngành thời trang, đồ gia dụng của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, các nước Đông Bắc Á hay các nước CPTPP ngày càng đặt ra những tiêu chuẩn mới, đòi hỏi khắt khe hơn từ thị trường, liên quan đến xanh hóa chuỗi sản xuất và cung ứng, các tiêu chí phát triển bền vững, sản xuất tuần hoàn… đặt ra nhiều những thách thức chưa từng có tiền lệ cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
"Để có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường, giúp lấy lại đà tăng trưởng cho các ngành hàng thế mạnh kể trên, việc chuyển đổi xanh, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là xu hướng phát triển tất yếu và xu hướng này đang dần hình thành luật chơi mới về thương mại và đầu tư trên toàn cầu. Bên cạnh đó, với đặc thù là ngành hàng đòi hỏi phải liên tục thay đổi mẫu mã, phù hợp với xu thế, thị hiếu thị trường, do vậy doanh nghiệp trong lĩnh vực cần luôn chủ động, có chiến lược rõ ràng và cập nhật xu hướng tiêu dùng thường xuyên tại các thị trường xuất khẩu," ông Tạ Hoàng Linh khuyến nghị.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Chánh Phương, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh (HAWA) nhấn mạnh, Việt Nam đang là trung tâm sản xuất sản phẩm gỗ cho thế giới; có lợi thế về chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, bền vững về chính sách, con người, nguồn cung nguyên vật liệu. Nhưng để thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ, nội thất Việt Nam hiệu quả hơn, cần hình thành trung tâm logistics-xúc tiến thương mại đồ nội thất Việt Nam. Về khía cạnh thị trường, doanh nghiệp cần bứt phá khỏi các thị trường truyền thống, hướng đến các thị trường có sức mua tốt như Canada, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất…
Song song đó, ngành gỗ, nội thất cũng đang tích cực mở rộng xuất khẩu online, xuất khẩu theo các dự án. Việc đẩy mạnh quảng bá thương hiệu nội thất quốc gia tại các hội chợ quốc tế về nội thất là một chiến lược mà doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng để xúc tiến thương mại đạt hiệu quả cao.
Đại diện "gã khổng lồ" về nội thất, ông Eryk Dolinski, Giám đốc Phát triển Kinh doanh sản phẩm gỗ, Bộ phận cung ứng Tập đoàn IKEA khu vực Đông Nam Á, cho biết IKEA có 463 điểm kinh doanh nội thất trên 62 quốc gia với doanh thu năm 2022 đạt 44,6 tỷ USD. IKEA bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ 1993 và đã làm việc với 43 nhà cung cấp khắp cả nước với nhiều nhóm mặt hàng, ngoài gỗ còn có hàng lắp ráp, sợi tự nhiên, kim loại, sản phẩm gia dụng và chiếu sáng.
Sản phẩm gỗ nội ngoại thất của Việt Nam được các nhà bán lẻ Anh quan tâm. (Ảnh: Phong Hà/TTXVN)
Về lý do IKEA chọn Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng của mình bởi ở đây có sẵn nguồn nguyên liệu thô gồm gỗ cao su và các loại gỗ khác; chi phí lao động cạnh tranh; cơ sở hạ tầng logistci phát triển và quan trọng nhất là nền kinh tế của Việt Nam phát triển ổn định trong thời gian dài.
Tuy nhiên, ngành chế biến gỗ và nội thất của Việt Nam vẫn có những thách thức, đó là thâm dụng lao động lớn, nguồn nguyên liệu chủ yếu vẫn nằm trong ở các nông hộ nhỏ lẻ khó truy xuất nguồn gốc. Khoảng cách địa lý xa tạo thêm chi phí và thời gian vận chuyển từ kho hàng tại Việt Nam đến các quốc gia khác.
Để giải quyết các vấn đề trên, ông Eryk Dolinski cho rằng ngành gỗ và nội thất cần tập trung đầu tư cho tự động hóa giúp tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Tự động hóa không chỉ trong nhà máy mà trong toàn chuỗi cung ứng để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Đồng thời, phải tạo ra môi trường lao động tốt hơn và giảm phát thải khí carbon; tăng cường hiệu quả trong chứng nhận nguồn gốc gỗ. Tối ưu hóa chuỗi cung ứng từ vận chuyển nguyên liệu, nhà máy cưa, xẻ đến các công đoạn sản xuất, vận chuyển phải được chú trọng nhằm tiết kiệm tối đa nguyên liệu, năng lượng, chi phí logistics.
Với lĩnh vực thời trang, đại diện Tập đoàn Uniqlo nhấn mạnh các xu hướng trong tiêu dùng hiện nay là ưu tiên sản phẩm bền vững, minh bạch thông tin, ít phát thải và tái sử dụng. Trong bối cảnh đó, mục tiêu của Uniqlo là nâng tỷ lệ vật liệu tái chế và các vật liệu khác có lượng phát thải khí nhà kính thấp từ 5% năm 2022 lên 50% vào năm 2030. Uniqlo cũng ưu tiên chuyển đổi và nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo tại các nhà máy, giảm lượng nước sử dụng trong quá trình sản xuất… Điều này cũng chính là yêu cầu chung cho tất cả các đơn vị muốn tham gia vào chuỗi cung ứng của Uniqlo.
Bà Brigitte Heuser, Chuyên gia về ngành dệt may của Chương trình Xúc tiến Nhập khẩu Thụy Sĩ (SIPPO), chia sẻ các doanh nghiệp dệt may, thời trang nói chung có thể sử dụng những kinh nghiệm của Uniqlo để định hướng về kinh tế tuần hoàn, nguyên liệu bền vững, làm sao giảm dấu chân carboncho sản phẩm của mình. Vấn đề của ngành dệt may hiện nay chính là tìm ra giải pháp giảm thời gian sản xuất, giảm sử dụng các tài nguyên không tái tạo, cập nhật và đáp ứng các xu hướng mới, các chứng nhận về môi trường.
Theo bà Brigitte Heuser, các nhà mua hàng quốc tế đang có xu hướng gia tăng tìm nguồn cung ứng tại Việt Nam, nhưng để khai thác hiệu quả cơ hội đó, doanh nghiệp Việt cần có sự chuẩn bị để thích ứng với sự chuyển dịch của thị trường, linh hoạt trong sản xuất theo số lượng, nắm bắt được nhu cầu, văn hóa của đối tác. Với các thị trường lớn, đặc biệt là EU, bắt buộc phải đạt được các chứng nhận thì "cửa" mới mở.
Cần lưu ý các tiêu chuẩn mà thị trường yêu cầu không chỉ với một doanh nghiệp mà với cả chuỗi cung ứng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong chuỗi phải chủ động hợp tác, liên kết chặt chẽ để cùng nhau phát triển./.
(TTXVN/Vietnam+)