Tin tức

Tháng 2/2020, sản xuất sữa tươi trong nước tăng nhưng sữa bột lại giảm đáng kể

19.10.2020

Tình hình sản xuất sữa của các doanh nghiệp trong tháng 02/2020 có nhiều thay đổi, đó là sản lượng sữa tươi thì tăng trong khi sữa bột lại giảm

Tình hình sản xuất sữa của các doanh nghiệp trong tháng 02/2020 có nhiều thay đổi, đó là sản lượng sữa tươi thì tăng trong khi sữa bột lại giảm, cụ thể:

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Thống kê, ước tính sản lượng sữa bột trong tháng 02/2020 đạt 10,1 nghìn tấn, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Nâng tổng sản lượng sữa bột sản xuất trong 2 tháng đầu năm lên mức 18,4 nghìn tấn, giảm đến 8,4% so cùng kỳ năm 2019.

Về mặt hàng sữa tươi trong tháng 02/2020 ước đạt 128,3 triệu lít, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Nâng tổng lượng sữa tươi sản xuất trong 2 tháng đầu năm lên mức 238,4 triệu lít, tăng 4,8% so cùng kỳ năm 2019.

Đáng chú ý, mặt hàng sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác, có hàm lượng chất béo không quá 6% tính theo trọng lượng có lượng sản xuất trong tháng 2/2019 đạt cao nhất với 76,4 triệu lít, tăng 15,34% so tháng trước và 16,46% so cùng kỳ năm trước. Như vậy, 2 tháng đầu năm 2020, lượng sản xuất mặt hàng trên đạt 142,64 triệu lít, tăng 2,34% so cùng kỳ năm trước.

Tiếp đến là mặt hàng Sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác, có hàm lượng chất béo trên 6% tính theo trọng lượng đạt 50,338 triệu lít, tăng 18,43% so tháng trước và 15,67% so cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng mặt hàng này 2 tháng đầu năm nay tăng 6,87% đạt 92,93 triệu lít.

Hiện nay, tỉnh có lượng sữa và các sản phẩm từ sữa sản xuất đạt cao nhất là Bình Dương (đạt gần 98 triệu lít); tiếp theo là Nghệ An và Bắc Ninh (trên 40 triệu lít).

Tham khảo lượng sản xuất mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa trong tháng 02 và 02 tháng đầu năm 2020

Tên sản phẩm

ĐVT

Tháng 02/2020

So với tháng 01/2020 (%)

So với tháng 02/2019 (%)

02 tháng 2020

So với 02 tháng 2019

(%)

Sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác, có hàm lượng chất béo không quá 6% tính theo trọng lượng

1000 lít

76.401

15,34

16,46

142.643

2,34

Sữa và kem chưa cô đặc, chưa pha thêm đường và chất ngọt khác, có hàm lượng chất béo trên 6% tính theo trọng lượng

1000 lít

50.384

18,43

15,67

92.928

6,87

Sữa chua, sữa và kem lên men hoặc axit hoá

Tấn

16.141

-2,46

4,87

32.690

-0,65

Sữa và kem dạng bột, hạt hoặc các thể rắn khác có hàm lượng chất béo trên 1,5% tính theo trọng lượng

Tấn

5.797

31,86

-3,96

10.194

-13,19

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Ngành sữa Việt Nam đang từng bước phát triển bền vững, theo hướng hiện đại, đồng bộ từ sản xuất nguyên liệu đến thành phẩm, có khả năng cạnh tranh để chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội.  Nhưng sản lượng sữa mới chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu tiêu dùng trong nước.

Xã hội càng ngày càng phát triển, nhu cầu về sữa của người tiêu dùng trên thế giới và trong nước ngày càng cao, vì thế, thị trường sữa rất sôi động đặc biệt về sữa tươi. Trước yêu cầu đó, Việt Nam cần và phải phát triển nhanh hơn, nhiều hơn về đàn bò sữa, về sản lượng và chất lượng sữa. Song song với việc khuyến khích các công ty lớn đầu tư chăn nuôi bò sữa tập trung công nghiệp, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn cho chăn nuôi bò sữa quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt quy mô hộ gia đình. Ở quy mô này, một mặt khắc phục dần những khó khăn đã nêu trên, mặt khác khuyến khích cá nhân, các quy mô ở khu vực này tăng số lượng đầu con, áp dụng các biện pháp, các tiến bộ kỹ thuật về chọn, nuôi giữ giống; về kỹ thuật chế biến thức ăn; kỹ thuật chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh; kỹ thuật khai khác, bảo quản sữa trước khi chế biến...

In bài Share