Đáp ứng quy định EUDR: Rà soát các điểm rủi ro trong chuỗi cung ứng và giải pháp thích ứng
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức để đáp ứng được yêu cầu truy xuất nguồn gốc theo quy định của EUDR thì việc rà soát thông tin chuỗi cung ứng và những giải pháp của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng là rất cấp thiết.
Các nghiên cứu cho biết, hiện tại, thông tin về chuỗi cung của nông hộ sản xuất nông - lâm sản nói chung còn tương đối hạn chế, đặc biệt là các thông tin phục vụ truy xuất nguồn gốc của nông - lâm sản.
Theo Tổ chức Forest Trends, về cơ bản, quy định về thẩm định chuỗi cung ứng (hay còn gọi là trách nhiệm giải trình - due diligence) trong EUDR không có nhiều khác biệt so với các quy định mà EU đã áp dụng trong Quy định về gỗ hợp pháp (EUTR 995) và Hiệp định VPA/FLEGT nhằm quản lý chuỗi cung ứng gỗ và sản phẩm gỗ. Tuy nhiên, EUDR đòi hỏi cao hơn về mặt bằng chứng khi yêu cầu doanh nghiệp cung cấp tọa độ đến tận thửa đất khai thác. Với thông tin này, cơ quan thẩm quyền EUDR có thể tự xác minh bằng hệ thống vệ tinh viễn thám của EU xem có xảy ra tình trạng mất và/ hoặc suy thoái rừng tại khu vực sản xuất hàng hóa hay không. Do đó, việc thống kê và đánh giá các hộ tham gia chuỗi cung là điều bắt buộc.
Để thu thập các thông tin liên quan đến hộ như số thửa đất, diện tích các thửa, vị trí của thửa, tình trạng pháp lý, lịch sử hình thành và rủi ro mất rừng..., doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với chính quyền địa phương để thực hiện một cuộc thống kê toàn diện đối với các hộ tham gia chuỗi cung ứng của mình. Trong đó, cần làm rõ sự khác biệt giữa hai nhóm hộ, bao gồm: Hộ tham gia chuỗi có chứng chỉ (khoảng 30% diện tích trồng cà phê và một số hộ trồng rừng); Hộ không tham gia các chương trình chứng chỉ.
Nội dung khảo sát cần thỏa mãn tối thiểu các yếu tố sau:
- Thông tin về khu vực canh tác, sản xuất nông-lâm sản của hộ: số mảnh đất, diện tích, tình trạng pháp lý, vị trí địa lý, số lượng và chủng loại cây trồng trên từng mảnh, tuổi cây, năng suất....
- Kênh đầu ra của nông hộ: chủng loại sản phẩm, bán cho ai, bán đi đâu, số lượng bao nhiêu, có thực hiện trộn lẫn sản phẩm giữa các mảnh đất khác nhau/ giữa nguồn có chứng chỉ và không có chứng chỉ khi thu hoạch/ chế biến/ lưu trữ/ vận chuyển hay không (khả năng truy xuất nguồn gốc)...
- Cơ chế liên kết của hộ: hộ có tham gia mô hình hợp tác xã nào không, hộ có tham gia liên kết với công ty trong quá trình sản xuất không, cơ chế liên kết thế nào, lợi ích liên kết thế nào….
Forest Trends
Ngoài nông hộ, nhóm thương lái thu mua cũng cần được thống kê và khảo sát xem cách thức thu mua và quản lý thông tin hàng hóa trong nhóm này trước khi bán cho công ty, cơ sở chế biến hiện có các rủi ro gì. Nhóm này cũng cần được phổ biến về các quy định mới của EUDR để có thể tư vấn và yêu cầu hộ thu thập các thông tin cần thiết vào hồ sơ nông-lâm sản nhằm giúp người dùng trong các khâu tiếp theo của chuỗi tránh được các chi phí phát sinh sau này khi bị người mua hoặc cơ quan thẩm quyền ở phía EU yêu cầu truy xuất ngược lại toàn chuỗi.
Việc triển khai thực hiện khảo sát này trên quy mô rộng đòi hỏi nguồn lực rất lớn do số nông hộ tham gia sản xuất rất lớn, các thửa đất sản xuất manh mún, phân tán. Hiện tại, chỉ có các diện tích đã có chứng chỉ là dễ tiếp cận hơn do các hộ đã thực hiện yêu cầu truy xuất nguồn gốc khi tham gia các chương trình chứng chỉ. Do đó, rất khó để có thể triển khai đồng loạt trên toàn quốc mà cần tiếp cận theo các vùng sản xuất trọng điểm của từng ngành. Việc thí điểm có thể thực hiện ở cấp xã hoặc huyện trước khi nhân rộng ra toàn tỉnh hoặc khu vực.
Song song với việc thu thập thông tin và xác định rủi ro, doanh nghiệp cần có chiến lược giảm thiểu rủi ro trong chuỗi và hỗ trợ các nhà cung cấp của mình, bao gồm mạng lưới thương lái và nông hộ, thực hiện các hành động đó. Tất cả các hoạt động này khi được thực hiện đồng bộ và lưu trữ hồ sơ, thông tin đầy đủ sẽ giúp doanh nghiệp không gặp cản trở khi xuất khẩu vào EU khi EUDR bắt đầu được áp dụng, đồng thời cũng giảm nguy cơ Việt Nam bị EU phân loại rủi ro cao về mất và suy thoái rừng.
Trong bối cảnh sắp tới thời gian quy định EUDRchính thức được thực hiện, theo Forest Trends, việc rà soát các điểm rủi ro trong chuỗi cung ứng liên quan tới nông hộ rất cấp thiết. Việc này cần triển khai một cách có hệ thống và chiến lược rõ ràng để kịp thời thu thập và xử lý thông tin của hàng triệu nông hộ theo quy định của EUDR.
Tuy nhiên, do năng lực và nguồn lực của nông hộ nhìn chung rất hạn chế, cần có sự tham gia của nhiều bên liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu và cơ quan quản lý các cấp.
Thứ nhất, vai trò của các cơ quan quản lý
Cần gấp rút nghiên cứu xây dựng, cập nhật và chia sẻ với các bên liên quan như hiệp hội, doanh nghiệp và EU về các thông tin: Bản đồ thực trạng rừng, mất rừng, suy thoái rừng; Hiện trạng đất đai - bản đồ số hóa, vị trí và hiện trạng các lô đất chưa được cấp sổ đỏ, tính chính xác của vị trí và ranh giới các thửa đất theo sổ đỏ đã cấp... tập trung vào các tỉnh có diện tích cà phê, cao su, rừng trồng lớn.
Ngoài ra, cần rà soát chuỗi cung ứng của các ngành hàng – bắt đầu từ các ngành hàng gỗ, cà phê, cao su – để đánh giá rủi ro và khả năng đáp ứng của người sản xuất, thương lái và doanh nghiệp với yêu cầu của EUDR như đã trình bày ở trên.
Trên cơ sở này, các ban ngành, đặc biệt là chính quyền địa phương tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền, xây dựng năng lực cho nông hộ, đặc biệt là tại các khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, cần xem xét đưa ra chính sách phù hợp để nhanh chóng hợp thức hóa các thửa đất sản xuất của hộ hiện chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không nằm trong diện rủi ro gây mất và suy thoái rừng.
"EUDR quy định sản phẩm xuất khẩu phải có tọa độ địa lý nhưng Việt Nam hiện chưa có quy định pháp luật nào về vấn đề này. Đây là một trong những vấn đề mà Cục Lâm nghiệp tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định pháp luật về lâm nghiệp, cũng như tổ chức những buổi tập huấn, nâng cao năng lực thực thi cho doanh nghiệp và chuỗi cung"
Ông Trần Quang Bảo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT (Hội thảo: Rà soát mức độ sẵn sàng thực hiện quy định EUDR cho ngành cà phê và gỗ ở Việt Nam)
Thứ hai, vai trò của doanh nghiệp và hiệp hội
Các doanh nghiệp cần nhanh chóng rà soát lại chuỗi cung ứng của mình và làm việc với chính quyền địa phương và các thương lái cung cấp hàng cho mình để đánh giá khả năng đáp ứng quy định EUDR của chuỗi cung hiện tại của mình. Việc đánh giá cũng cần xác định những tồn tại của chuỗi. Qua đó, doanh nghiệp sẽ xây dựng phương án khắc phục các vấn đề này. Khắc phục các tồn tại này có thể phải đòi hỏi các nguồn lực về con người, tài chính và sự tham gia tích cực của các bên liên quan, đặc biệt là chính quyền địa phương - cơ quan có trách nhiệm trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tình trạng pháp lý và vị trí địa lý của các thửa đất canh tác của hộ.
Đáp ứng truy xuất nguồn gốc đòi hỏi doanh nghiệp tổ chức lại chuỗi cung ứng, đặc biệt chính thức hóa giao dịch giữa các hộ và hệ thống thương lái. Chính thức hóa giao dịch này đòi hỏi việc đơn giản hóa các yêu cầu tại các khâu này. Cắt ngắn chuỗi cung ứng thông qua thiết lập liên kết giữa các hộ và các công ty chế biến trong các dự án xây dựng vùng nguyên liệu có chứng chỉ bền vững là một trong những cách thức tốt để thực hiện việc đơn giản hóa chuỗi. Một số công ty gỗ, cà phê, cao su đã có kinh nghiệm tham gia các chương trình chứng chỉ bền vững trong nhiều năm cho biết việc truy xuất nguồn gốc là một yêu cầu bắt buộc trong các chương trình này. Do đó, các doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu sang EU trong tương lai mà chưa tham gia làm chứng chỉ thì có thể xem xét phương án này để vượt qua các rào cản sắp tới.
Mặt khác, việc hình thành vùng nguyên liệu bền vững và xây dựng liên kết giữa công ty và các nông hộ cần đảm bảo lợi ích kinh tế mà hộ thu được từ các sản phẩm có chứng chỉ bù đắp thỏa đáng cho phần chí phí đầu vào của hộ, đặc biệt là chi phí về lao động. Là một trong những bên chủ chốt tham gia chuỗi cung, doanh nghiệp cần hỗ trợ các hộ trong việc tham gia các hoạt động sản xuất sản phẩm bền vững, có chứng chỉ.
(Nguồn ảnh: Simexco)
Để đáp ứng quy định của EUDR, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk (Simexco) đã sớm triển khai hàng loạt biện pháp thu thập dữ liệu vùng trồng và các thủ tục pháp lý liên quan. Đến nay, sau nhiều nỗ lực, Công ty đã được trao 2 chứng nhận của Tổ chức 4C, đối với 2 vùng trồng đáp ứng tiêu chuẩn EUDR, với gần 8.000 nông dân, 9.500 ha cà phê và sản lượng trên 35.000 tấn.
Đặc biệt, việc phát triển các vùng nguyên liệu cà phê bền vững đã được doanh nghiệp triển khai từ sớm, thông qua các chương trình như: quản lý cảnh quan, chứng nhận chất lượng, sản xuất cà phê giảm thiểu carbon. Sau 15 năm, doanh nghiệp đã hợp tác với 40.000 hộ, xây dựng vùng liên kết trên 50.000 ha, sản xuất trên 100.000 tấn cà phê bền vững mỗi năm. Việc thực hiện sản xuất bền vững giúp doanh nghiệp dễ dàng thích ứng với các quy định của EUDR.
Bên cạnh sự chủ động của các doanh nghiệp, chính quyền địa phương cũng nên có những cơ chế chính sách, khuyến khích nông hộ và doanh nghiệp tham gia các hoạt động này. Các hoạt động khuyến khích này có thể thông qua việc Chính quyền tích cực tham gia, giải quyết các tồn tại về đất đai, xác định mối liên kết giữa rủi ro về mất rừng và hoạt động sản xuất của hộ và doanh nghiệp.
Các nông hộ cần được tập huấn nâng cao nhận thức về tính hợp pháp của nông-lâm sản nói chung và quy định mới trong EUDR nói riêng để hộ ý thức được tầm quan trọng của việc truy xuất nguồn gốc, qua đó tích cực và chủ động thực hiện các hành động cần thiết để tăng cường tính minh bạch đối với nguồn gốc sản phẩm và giảm thiểu rủi ro trong chuỗi cung ứng. Mạng lưới tư thương với vai trò là cầu nối giữa hàng triệu hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu lớn cần được tham gia vào các hoạt động xây dựng năng lực, tuyên truyền, phổ biến thông tin về EUDR để hiểu và nắm rõ về các quy định mới phát sinh nhằm thu thập đủ và đúng các thông tin cần thiết để truy xuất nguồn gốc nông sản.
Đối với quy định về tọa độ địa lý của lô đất sản xuất, doanh nghiệp và chính quyền địa phương cần phối hợp để giúp hộ nắm được thông tin về tọa độ vị trí của thửa đất của mình để có thể cung cấp cho người mua khi được yêu cầu.
Do việc phân chia chuỗi cung sản phẩm gặp nhiều khó khăn trên thực tế, việc yêu cầu các hộ cung cấp thông tin này khi bán sản phẩm cho bất cứ người mua nào cần được thực hiện đồng bộ thì mới đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc. Doanh nghiệp và chính quyền địa phương cần tạo cơ sở dữ liệu về hộ và bản đồ thửa đất cũng như phần mềm để hộ tự khai báo thông tin nhằm phục vụ truy xuất nguồn gốc liên tục trong tương lai. Các tiện ích này phải được cung cấp miễn phí và truy cập dễ dàng đối với hộ và bất cứ bên quan tâm nào. Hộ cần được hỗ trợ mua sắm thiết bị và tập huấn sử dụng các tiện ích này nếu cần. Các bên nên xem xét liên kết cùng đóng góp kinh phí xây dựng một cơ sở dữ liệu và phần mềm sử dụng chung cho cả nước và các ngành để tiết kiệm chi phí và dễ dàng quản lý thông tin.
Việt Thành