Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ: UKVFTA - cửa ngõ để hàng Việt xuất khẩu sang thị trường EU

05.11.2023

Chia sẻ với báo chí, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ cho rằng, để tận dụng lợi thế của Hiệp định UKVFTA, Việt Nam phải hoá giải nhiều thách thức, trong đó cần thay đổi tư duy sản xuất trong các thành phần kinh tế, từ số lượng sang chất lượng.

Đến nay, ông có thể nêu những lợi thế để hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Anh trong bối cảnh Hiệp định UKVFTA đang thực thi?

Cũng như các FTA thế hệ mới khác, việc thực thi Hiệp định UKVFTA, trước hết đã mở rộng cánh cửa để hàng hoá Việt Nam tiếp cận thị trường xuất khẩu tiềm năng của thế giới; đặc biệt đây là cửa ngõ để hàng hoá Việt Nam vào thị trường EU được tăng lên.  Đặc biệt, với các ưu đãi thuế quan tương đối lớn là lợi thế đề hàng hoá Việt Nam nâng sức cạnh tranh trên thị trường Anh. Ngoài ra, chúng ta phải thấy rằng, bất kỳ một FTA nào, trong đó có UKVFTA đều thúc đẩy đổi mới công nghệ sản xuất hàng hoá, thúc đẩy chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị bởi hàng hoá vào thị trường Anh luôn đòi hỏi tiêu chuẩn cao.

Bên cạnh đó, việc tham gia hiệp định đã giúp tăng lợi thế đi trước của Việt Nam so với các nước Asean khi chúng ta ký kết UKVFTA. Bởi, nhiều mặt hàngcủa Asean cũng tương đồng với Việt Nam nên khi thực hiện cam kết trong UKVFTA đồng nghĩa rằng sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam tại thị trường này sẽ thuận lợi hơn. Mặt khác, chúng ta chủ động được nguồn nguyên liệu, đảm bảo sự ổn định, chất lượng cho sản xuất hàng hoá và tham gia sâu hơn vào thị trường EU thông qua Anh.

Như phân tích trên, thì rõ ràng Việt Nam có nhiều lợi thế để xuất khẩu sang thị trường Anh. Tuy nhiên, theo ông vì sao thị phần hàng Việt tại thị trường Anh vẫn còn khiêm tốn?

Trên thực tế để hàng hoá thâm nhập cá thị trường, nhất là những thị trường khó tính như EU hay Anh là không hề đơn giản trong khi nguồn lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn hết sức hạn chế. Trong đó, do nguồn lực hạn chế nên giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu thấp do đầu vào không ổn định, có quá nhiều thị trường đưa vào, chi phí logistics lớn, tác động tiêu cực biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, quy hoạch.

Bên cạnh đó, hiện tỷ lệ nội địa hoá còn thấp, hàng hoá chủ yếu xuất khẩu thô, hoặc doanh nghiệp chủ yếu làm gia công. Trong khi tiềm năng sản xuất hàng hoá của chúng ta rất lớn. Cùng với đó, dù đã bước vào sân chơi kinh tế toàn cầu, nhiều lĩnh vực kinh tế cần phải hiện đại hoá công nghệ sản xuất, cải thiện chất lượng nguồn nhân lưc. Nhưng đây là vấn đề còn yếu kém. Ngành công nghiệp hỗ trợ trong các lĩnh vực sản xuất chưa phát triển; các doanh nghiệp, ngành hàng còn thiếu nhạy bén, hạn chế trong nắm bắt nhu cầu của thị trường; các hoạt động xúc tiến xuất khẩu chưa mang lại nhiều hiệu quả thiết thực…

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ

Vậy, theo ông giải pháp để tháo gỡ các thách thức là gì để chúng ta khai thác dư địa thị trường Anh trong bối cảnh quốc gia này vừa gia nhập Hiệp định CPTPP?

Anh là thị trường lớn, khó tính nên việc phải đối diện các thách thức là điều tất yếu mà hàng hoá Việt Nam phải đổi diện. Trong đó, chúng ta cần quan tâm đó là đây là quốc gia đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao về môi trường, lao động… Ngay như yếu tố lao động các doanh nghiệp Việt Nam dễ bị vi phạm, như quy định về tiền lương tối thiểu, độ tuổi lao động. Đây cũng là thị trường khắt khe đối với chất lượng hàng hoá của thế giới. Đơn cử, là thị trường tiêu thụ cà phê, tiêu rất lớn nên Anh thường xuyên quan tâm đến việc có gây dị ứng từ sản phẩm hay không. Điều này cho thấy, các tiêu chuẩn của thị trường rất chi tiết, ngay trong cả văn hoá tiêu dùng.

Ngoài ra, để hoá giải các thách thức, nhà nước cần kiến tạo, hỗ trợ doanh nghiệp trong sản xuất, xuất khẩu về mặt cơ chế, chính sách pháp lý, sở hữu trí tuệ; kết nối giao thông vùng nguyên liệu, tín dụng, xây dựng dữ liệu thông tin, thúc đẩy đổi mới sáng tạo… Thay đổi tư duy sản xuất trong các thành phần kinh tế, từ số lượng sang chất lượng và theo tiêu chuẩn của Anh. Mặt khác, các doanh nghiệp cần thiết lập bạn hàng truyền thống, vệ tinh lớn; liên kết với các Tập đoàn lớn, nắm được nhu cầu tiêu dùng của thị trường.

Đặc biệt, Các cơ quan đại diện nước ngoài, Thương vụ Việt Nam tại Anh cần nắm vững thông tin thị trường, sự thay đổi về các tiêu chuẩn thói quen của người tiêu dùng để cung cấp kịp thời, nhanh chóng cho doanh nghiệp, ngành hàng. Việc đẩy mạnh dự báo càng sớm càng tốt, bởi điều này mới giúp cho tổ chức sản xuất đúng hướng và quan trọng là nắm được nhu cầu, xu hướng tiêu dùng bản địa. Ngoài ra, cần tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia; hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu sang Anh, bảo hộ thương hiệu cho doanh nghiệp.

Nhà nước cũng cần có thêm các cơ chế, chính sách pháp lý, sở hữu trí tuệ phù hợp với bối cảnh mới; đồng thời ban hành các chính sách về sử dụng đất, giải quyết về vấn đề môi trường, hỗ trợ về tín dụng vay vốn, hỗ trợ xây dựng dữ liệu thông tin, minh bạch trong tài chính; đào tạo nguồn nhân lực hạt nhân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo…. Như vậy, từ chính nỗ lực của doanh nghiệp cộng với các chính sách hỗ trợ của nhà nước kỳ vọng sẽ cải thiện được thị phần hàng Việt Nam tại Anh cũng như để tận dụng UKVFTA trong thời gian tới một cách hiệu quả hơn, như kỳ vọng trước khi hai bên ký kết hiệp định này.

Xin cảm ơn ông!

 

 

Hữu Hưng

In bài Share