Hoạt động
41% doanh nghiệp từng hưởng lợi ít nhất lợi ích từ EVFTA
Theo kết quả khảo sát của VCCI, gần 41% doanh nghiệp cho biết, đã từng được hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Trong Báo cáo “Việt Nam sau 2 năm thực thi EVFTA từ góc nhìn doanh nghiệp” do VCCI thực hiện với sự hỗ trợ của Viện FNF dựa trên kết quả khảo sát hơn 500 doanh nghiệp trên cả nước và Nghiên cứu rà soát đánh giá các văn bản pháp luật thực thi EVFTA trong hai năm qua mới công bố gần đây, tỉ lệ các doanh nghiệp Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất đáng khả quan, với gần 41% cho biết đã từng hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA. Lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất-nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI – đánh giá, điều này có thể là kết quả của sự cải thiện trong mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về hiệp định này. Theo khảo sát, có tới gần 94% doanh nghiệp từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về EVFTA, cao nhất trong số các FTA đang thực hiện.
Cứ 10 doanh nghiệp thì có 3 doanh nghiệp biết khá rõ và 1 doanh nghiệp biết rất rõ về các cam kết EVFTA có liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình. EU là một thị trường có tiêu chuẩn cao, nhưng mức chi trả cũng rất cao, nên đây sẽ là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam khai thác, tận dụng hội xâm nhập vào thị trường. Đó cũng là lý do, kết quả khảo sát của 500 doanh nghiệp cho thấy, nhìn về tương lai, 76% doanh nghiệp cho rằng, EVFTA và các FTA sẽ có tác động tới triển vọng kinh doanh trong 3 năm tới, và phần lớn lạc quan đây sẽ là các tác động tích cực.
Thực tế, sau hơn 2 năm thực thi, EVFTA đã góp phần đáng kể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác. Bà Nguyễn Cẩm Trang - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) – thông tin, trong 2 năm thực thi hiệp định này, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU (như sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%...).
Một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao như nhóm gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm (tăng trên 50%); các sản phẩm gốm, sứ (tăng trên 25%); nhóm rau quả, dây diện và dây cáp điện (tăng trên 15%)...
Bà Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, vẫn còn nhiều dư địa để hàng hóa Việt Nam mở rộng thị phần tại EU. Bởi hiện, thị phần của Việt Nam mới chiếm 1% nhập khẩu của EU. Việt Nam có nhiều sản phẩm quả nhiệt đới thế mạnh, như ổi, xoài, măng cụt, sầu riêng, chuối, dưa hấu, dừa; mặt hàng chủ lực tôm sú, tôm chân trắng đông lạnh, cá ngừ; các mặt hàng có lợi thế thuế ưu đãi, như mực, bạch tuộc, hàu, sò điệp, bào ngư.
Để tận dụng tốt hơn những cơ hội từ EVFTA, theo các chuyên gia, sự chủ động trong nhận thức và hành động của doanh nghiệp là điều kiện cần và các nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ, để doanh nghiệp có thể hiện thực hóa các lợi ích từ EVFTA hay các FTA nói chung. Ngoài ra, định vị thương hiệu và xúc tiến thương mại là điều các doanh nghiệp cần quan tâm trong thời điểm hiện nay. Các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt thông tin về cơ hội cắt giảm thuế quan đối với mỗi sản phẩm đặc trưng của doanh nghiệp mình.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp chủ động nắm bắt thông tin về thị trường EU với các xu hướng, thị hiếu cũng như cơ chế nhập khẩu hàng hóa, trong đó quan tâm đến các yêu cầu chất lượng tránh để hàng hóa bị trả về vì không đáp ứng tiêu chuẩn.
Nguồn: www.moit.gov.vn·